Tại hội nghị lần này, cả hai hồ sơ đệ trình của Việt Nam đã được hội nghị xem xét và công nhận là Di sản Tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới.
Phát biểu tại buổi khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Đặng Thị Bích Liên khẳng định: Việt Nam là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời với các kho tàng di sản văn hóa đa dạng, phong phú. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng và đề cao văn hóa, xem văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội và phát triển con người. Ngay trong những năm tháng khó khăn nhất sau chiến tranh, Việt Nam đã tham gia và tích cực cùng UNESCO triển khai các kế hoạch mang tính chiến lược để bảo tồn các di sản văn hóa truyền thống.
Đến nay, sau gần 40 năm trở thành thành viên chính thức của UNESCO, Việt Nam đã có tám di sản vật thể, 10 di sản văn hóa phi vật thể, 4 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh. Ở trong nước, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng 72 di tích quốc gia đặc biệt, Bộ VHTTDL xếp hạng 3.308 di tích cấp quốc gia và đưa 162 di sản văn hóa phi vật thể vào Danh mục quốc gia. Đó là chưa kể gần 10.000 di sản văn hóa cấp tỉnh, thành phố đã được các địa phương xếp hạng; và sau 6 năm triển khai, trên bốn vạn di sản văn hóa phi vật thể đã được kiểm kê…
Chính phủ Việt Nam đánh giá cao vai trò của UNESCO trong việc hỗ trợ, đồng hành cùng các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới để bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa truyền thống, trong đó có sáng kiến thành lập Ủy ban Chương trình ký ức thế giới từ năm 1992, để công nhận và bảo vệ các di sản tư liệu quý giá có nguy cơ bị hủy hoại do chiến tranh, thiên tai, sự khác biệt về địa lý, tôn giáo...
Hội nghị toàn thể lần 7 của MOWCAP đã có nhiều phiên họp chính thức nhằm đánh giá kết quả hoạt động của MOWCAP, gồm: xem xét đánh giá các chương trình hoạt động được thông qua tại Hội nghị Toàn thể trước đó; giới thiệu và hướng dẫn thực hiện khuyến nghị của UNESCO về Di sản Tư liệu; xem xét lại bộ hướng dẫn về Chương trình Ký ức thế giới và Bảo vệ Di sản Tư liệu; bàn về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản tư liệu thế giới và khu vực châu Á-Thái Bình Dương; đồng thời lựa chọn, công bố những bộ sưu tập tài liệu tiêu biểu, có giá trị và ý nghĩa lịch sử, phù hợp với các tiêu chí đã đề ra vào danh mục Di sản Tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới của châu Á - Thái Bình Dương.
Toàn cảnh Hội nghị toàn thể lần thứ 7 của MOWCAP
Dịp này, Hội nghị cũng xem xét 16 hồ sơ (của 10 nước) đệ trình đăng ký công nhận là Di sản Tư liệu Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương để công nhận năm 2016. Trong đó, Trung Quốc có bốn hồ sơ; Việt Nam, Hàn Quốc, Malaysia mỗi nước đều có hai hồ sơ; các nước Uzbekistan, Nhật Bản, Singapore, Iran, Myanmar và Mông Cổ, mỗi nước có một hồ sơ. Hai hồ sơ của Việt Nam gồm: “Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế” và “Mộc bản trường học Phúc Giang” (Hà Tĩnh).
Chiều qua 19.5, Hội nghị đã công bố danh sách các hồ sơ được công nhận là Di sản Tư liệu Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Cả hai hồ sơ của Việt Nam đều được công nhận và đánh giá cao, nhất là hồ sơ “Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế”. Đây là toàn bộ hệ thống văn tự chữ Hán sáng tác dưới dạng các bài văn thơ được chạm cẩn chủ yếu trên các liên ba đố bản hoặc vách ván, những bản gốc duy nhất hiện còn ở kiến trúc thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế giai đoạn 1802 - 1945, cũng như ở Việt Nam.
Các tác phẩm này là sự kết tinh của nhiều yếu tố khác nhau, từ mỹ thuật, kỹ xảo trang trí, thư pháp, nghệ nhân nghề mộc cổ truyền cung đình tạo nên một phong cách mang đậm truyền thống của riêng Huế - Việt Nam. Trong khi đó, bộ mộc bản trường học Phúc Giang rất có giá trị trên nhiều phương diện. Điểm đặc biệt của di sản này so với bốn di sản của Việt Nam đã được công nhận là liên quan đến giáo dục ở một làng quê xa kinh thành, do một dòng họ lưu trữ và bảo quản, thể hiện đúng với tinh thần của Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO. Nó thể hiện tư tưởng của UNESCO về việc cần thiết xây dựng một xã hội học tập và đào tạo con người có đức có tài.