Vào những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, không cam chịu nô lệ, nhiều nhà yêu nước nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, Lương Văn Can... đi tìm đường cứu nước, nhưng kết cục đều bị thất bại. Sống trong bối cảnh nước mất, nhà tan các thế hệ người dân Việt Nam lúc ấy đều mong muốn đánh đuổi giặc Pháp, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Nguyễn Tất Thành sớm thấu hiểu tình cảnh nước mất, nhà tan và nỗi thống khổ của nhân dân. Người quyết định phải tìm ra con đường cứu nước mới nhằm đánh đuổi thực dân Pháp để cứu nước, cứu dân.
Bến cảng Nhà Rồng - Nơi Người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước
Hành trang lớn nhất của Người khi rời bến Nhà Rồng ra đi tìm một con đuờng mới cho cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, người thanh niên Nguyễn Tất Thành chỉ nung nấu một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Ra đi tìm đường cứu nước khi tuổi đời còn rất trẻ, khi đường lối đấu tranh của các nhà yêu nước bị bế tắc, một câu hỏi lớn đặt ra trong bối cảnh đất nước lúc bấy giờ là ”ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, người thì cho là Nhật, người nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ”. Với trí tuệ thiên tài và tình yêu nước mãnh liệt đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành tìm đường sang phương Tây, đến nước Pháp, đến nơi sản sinh ra những lời đẹp đẽ: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” nhưng đã chà đạp lên nhân phẩm, quyền được sống, quyền được hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã đi qua gần 30 nước ở Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và đã rút ra kết luận là chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa. Cũng từ đấy Người đã tìm đến Chủ nghĩa Mác-Lênin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp cuối năm 1920, và xác định con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn: “Chỉ có Chủ nghĩa Xã hội, Chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Đây có thể coi là móc quan trọng đầu tiên phản ánh sự chuyển biến cả trong tư tưởng lẫn hành động của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội khoa học; đánh dấu sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; về phương pháp cách mạng …
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ báo Thanh niên ra ngày 21-6-1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ với việc Người lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô ... Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 03-02-1930, dưới sự chủ trì của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong Cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân, thống nhất đất nước, thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến, thoát khỏi bần cùng, lạc hậu.
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trước yêu cầu mới của tình hình trong nước và được Quốc tế Cộng sản chấp nhận, mùa xuân năm 1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường về nước. Khi bước tới cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung (thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), Người đứng lặng hồi lâu, xúc động. Cũng từ đây, dưới sự lãnh đạo của Người cùng với Trung ương Đảng cách mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn mới. Ngày 19/5/1941, theo chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tại núi rừng Pắc Bó Mặt trận Việt Minh ra đời, với một quyết tâm được xác định rõ trong chương trình của mình “làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do”, Mặt trận Việt Minh đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Cách mạng Tháng 8 thành công ngày 2/9/1945, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chứng minh sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện. Tháng 12/1946, dân tộc ta đứng trước dã tâm xâm lược một lần nữa của thực dân Pháp và tình hình đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, đáp lại lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh quân dân cả nước đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu ngày 07/5/1945 bằng việc ký kết hiệp định Giơ ne vơ năm 1954, chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên Xã hội Chủ nghĩa làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ năm 1954 đến 1975, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với kẻ thù lớn mạnh, là đế quốc Mỹ - một cường quốc hàng đầu của thế kỷ XX, có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự hơn ta gấp nhiều lần. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quân và dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ. Đánh bại và làm sụp đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, đánh bại các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hoá chiến tranh” và các cuộc tập kích bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ vào miền Bắc. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, kết thúc 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử nước ta - kỷ nguyên của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và đi lên Chủ nghĩa Xã hội.
103 năm đã trôi qua, nhưng âm hưởng hào hùng và những giá trị to lớn của chuyến đi vĩ đại vẫn còn ngân vang mãi. Cũng từ chuyến đi lịch sử đó, Người đã kiến tạo nền độc lập dân tộc, đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và thống nhất đất nước đưa dân tộc ta, nhân dân ta đi đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc. Kỷ niệm 103 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước – với lòng kính yêu và tưởng nhớ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, trước tình hình biển Đông đang dậy sống, chủ quyền quốc gia đang bị xâm phạm, phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, yêu hòa bình, chân lý mỗi người trong chúng ta nguyện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng và văn minh.