Đơn vị hỗ trợ
Chào mừng Kỷ niệm 75 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 – 19/12/2021): Sự trường tồn của “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”
Ngày cập nhật 14/12/2021

Đứng trước sự hung hăng và kiêu ngạo của thực dân Pháp, lịch sử đang thử thách sự kiên định của một dân tộc có hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Với khát vọng bảo vệ nền độc lập, tự do cho đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đó là lời hịch non sông, kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. 75 năm đã đi qua, đất nước đã có nhiều thay đổi, nhưng lời hiệu triệu đó vẫn còn nguyên giá trị.

"Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh

75 năm trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” (19/12/1946 - 19/12/2021), nhưng âm hưởng hào hùng của lời kêu gọi bất hủ ấy vẫn mãi trường tồn cùng dân tộc Việt Nam, như lời hịch của non sông của đất nước mà thời trước Trần Quốc Tuấn đã từng kêu gọi, đó là một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự có giá trị lịch sử trong mọi thời đại, thể hiện niềm tin vững bền về con đường cách mạng mà toàn Đảng, toàn Dân ta đã dứt khoát lựa chọn từ khi thành lập Đảng 1930 đó là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. Để đối phó với âm mưu của Mỹ, Liên Xô một mặt phải tập trung phát triển kinh tế, tăng cường khả năng quốc phòng; mặt khác phải giúp đỡ các nước Đông Âu, vành đai phía Tây trong việc củng cố chế độ dân chủ nhân dân, vì thế, vấn đề Việt Nam chưa thể quan tâm. Trung Quốc đang trong tình trạng chấm dứt thời kỳ Quốc - Cộng hợp tác lần thứ hai (1945-1947), nội chiến bùng nổ. Đảng Cộng sản Trung Quốc phải tập trung mọi lực lượng và cố gắng giành thắng lợi trong nội chiến nên chưa có điều kiện giúp đỡ cuộc kháng chiến của Việt Nam. Tình hình các nước trong khu vực như Inđônêxia, Malaixia, Mianma... đều bị các nước thực dân Anh, Hà Lan tái chiếm. Đặc biệt là hai nước láng giềng Lào, Campuchia cũng bị thực dân Pháp chiếm đóng trở lại và dùng làm bàn đạp để bao vây, đánh chiếm Việt Nam. Các vùng biển phía Đông và phía Nam đều bị hạm đội của Anh khống chế. Nhìn chung, tình hình quốc tế trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ 2 có nhiều bất lợi cho Việt Nam. Cách mạng Việt Nam ở trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị cô lập với thế giới bên ngoài. Đó là thử thách hết sức gay gắt đối với Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh.
  Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến  do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn ngày 19-12-1946 tại nhà ông Nguyễn Văn Dương, làng Vạn Phúc, Hà Đông, Hà Tây (nay là Hà Nội) và được công bố ngày 19/12/1946 và ngày này về sau được lấy làm: ngày toàn quốc kháng chiến.
 
  Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị lịch sử như một Cương lĩnh kháng chiến, chứa đựng những quan điểm cơ bản về tư tưởng, đường lối chiến tranh nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, truyền thống anh hùng, bất khuất, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; là mệnh lệnh tiến công cách mạng, tạo khí thế để nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu với mọi vũ khí sẵn có với một ý chí quyết đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Việt Nam. Lời kêu gọi của Người rất ngắn gọn, súc tích và đã vạch trần dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, trình bày lập trường và nguyện vọng thiết tha với hòa bình của dân tộc ta. Người cũng đã vạch ra chiến lược chiến tranh nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đồng thời khẳng định cuộc kháng chiến sẽ nhất định đi đến thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, chính quyền cách mạng về tay nhân dân; nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ vận mệnh dân tộc. Song, chính quyền non trẻ đứng trước muôn vàn khó khăn, thù trong giặc ngoài và phải đối mặt với ba loại giặc cùng một lúc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Nhưng với dã tâm muốn cướp nước ta lần nữa nên ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người đã ký với đại diện chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946.
Nhưng sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp vẫn tiếp tục gây hấn ở Nam Bộ bằng xung đột vũ trang, lập Chính phủ Nam Kì tự trị, âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Do sự kiên quyết đấu tranh của ta, cuộc đàm phán chính thức giữa hai chính phủ được tổ chức tại Phông-ten-nơ-blô (Pháp). Nhưng cuộc đàm phán đã thất bại. Trong khi đó, tại Đông Dương, quân Pháp tăng cường hoạt động khiêu khích. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng và có nguy cơ xảy ra chiến tranh.
Trước tình hình trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946, tiếp tục nhượng bộ cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt Nam để có thời gian xây dựng và củng cố lực lượng, chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhất định sẽ bùng nổ.
Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, cuối tháng 11 năm 1946, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng và gây hấn nhiều nơi trong cả nước. Ngày 18-12-1946, tướng Moóc-li-e gửi cho ta hai tối hậu thư, một là: Pháp đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự chướng ngại trên các đường phố, hai là: giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô Hà Nội cho chúng.
Trước tình hình đó, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc với nội dung:
 
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào,
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc, ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! kháng chiến thắng lợi muôn năm.
Hà Nội ngày 19/12/1946.Hồ Chí Minh”
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất ngắn gọn nhưng súc tích, giản dị nhưng đanh thép và có sức cổ vũ, động viên và tổ chức lực lượng kháng chiến vô cùng mạnh mẽ, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất của nhân dân Việt Nam.
Đúng như dự báo của Người, Từ đêm ngày 23-9-1945 khi Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn đến ngày 20-7-1954 khi quân Pháp bị thất bại hoàn toàn ở Điên Biên Phủ, toàn quân và dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ hơn 3.323 ngày đêm gian khổ, hy sinh, nhưng vô cùng anh dũng, tự hào. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh dài ngày nhất của thực dân Pháp. Gần nửa triệu quân xâm lược nhà nghề của Pháp đã bị tiêu diệt, 2.688 tỷ phrăng và hơn 2 tỷ 600 triệu USD viện trợ bị tiêu phí vào cuộc chiến tranh phi nghĩa; 20 lần Chính phủ Pháp bị đổ; 7 lần Toàn quyền Pháp bị triệu hồi; 8 Tổng Chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau bị thua trận. Cuối cùng, thực dân Pháp buộc phải chấp nhận thất bại trước sức mạnh "toàn quốc kháng chiến" của nhân dân Việt Nam, phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. 
 
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam có ý nghĩa đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới mà khởi đầu là "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó "đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc"(8). Những kinh nghiệm mà Đảng và nhân dân ta đúc rút được trong quá trình "Toàn quốc kháng chiến" có giá trị vô cùng to lớn đối với kho tàng lý luận Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc .Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc "Toàn quốc kháng chiến" chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới"(9). Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý của thời đại ngày nay là một dân tộc nhỏ nhưng đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết chiến đấu theo một đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, thì có đầy đủ khả năng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng có đội quân nhà nghề, thiện chiến, được trang bị hiện đại.Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về "Toàn quốc kháng chiến", là thắng lợi của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh."Sau chín năm chiến tranh, sức mạnh quân sự của thực dân Pháp đã bị đập tan tại Điện Biên Phủ. Tháng 7 năm đó (1954) với việc ký kết Hội nghị Giơnevơ, các dân tộc Đông Dương đã giành được độc lập. Với vũ khí của mình, Hồ Chí Minh đã là tác giả của thắng lợi đó và tên tuổi của Người đã được ghi vào những trang sử vẻ vang nhất"(10) như Giáo sư Mighen Đêxtêphanô, Cố vấn Viện Nghiên cứu châu Á của Cuba đánh giá. Trong giai đoạn hiện nay nước ta đã bước sang giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Phát huy bài học "Toàn quốc kháng chiến", toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực thực hiện 6 nhiệm vụ trong tâm mà Đại hội XII đã chỉ ra, trong đó có nhiệm vụ thứ tư là: "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế".
 
75 năm đã trôi qua nhưng khí thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở thành ngày lịch sử, là dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Ngày nay, Lời kêu gọi thiêng liêng của Bác vẫn mãi giữ nguyên tính thời sự, đó là giá trị của niềm tin tất thắng, là ý thức sâu sắc giá trị độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự nghiệp xây dựng CNXH còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất định chúng ta sẽ thành công, đạt mục tiêu nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
 
Hằng Nguyễn
Các tin khác
Xem tin theo ngày