PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi nguồn nhân lực, trước hết là những cán bộ cấp chiến lược, phải nắm được những tri thức mới nhất, có phong cách tư duy hiện đại, cách thức suy nghĩ thiết thực và nhất là cách thực thi nhiệm vụ một cách hiệu quả. Đồng thời đòi hỏi mỗi người trong guồng máy sản xuất và hoạt động xã hội một tư duy cực kỳ năng động, có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhằm đạt kết quả cao nhất. Theo đó, cần quan tâm:
Một là, nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược và các lĩnh vực then chốt không chỉ cần có “phông kiến thức” đa dạng, sâu rộng mà còn phải có tầm nhìn chính trị trên nền tảng văn hóa chính trị. Tầm nhìn đó vừa phải xuất phát từ thực tiễn đất nước, vừa phải trên cơ sở đánh giá một cách sáng suốt, đúng đắn, khách quan, kịp thời những biến động mau lẹ, khó lường trên thế giới.
Tri thức văn hóa, trong đó có kiến thức về địa lý, lịch sử cùng những bài học đã được tích lũy trong văn hóa dân tộc là yếu tố căn bản để nguồn nhân lực cấp chiến lược chủ động, tích cực “nhất biến ứng vạn biến” trước các tình huống bất ngờ hoặc khó khăn không lường trước được. Những tri thức đã được đúc rút, tích lũy khi chuyển hóa thành tình cảm yêu nước chân chính sẽ tạo nên động lực to lớn giúp vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, thúc đẩy sự phát triển.
Hai là, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta càng cần phải chú trọng đến văn hóa, trước hết là văn hóa kinh doanh. Tiêu chí trung thực, chữ “tín” phải được xác định là yếu tố đầu tiên, có vai trò đặc biệt quan trọng để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cao trong lĩnh vực này.
Những giá trị văn hóa truyền thống như “buôn có bạn, bán có phường”; trung thực trong kinh doanh; ứng xử linh hoạt, mềm dẻo; biết thích nghi nhanh, dễ dàng hội nhập; có khả năng tiếp biến với cái mới, cái lạ... vẫn luôn là những điều căn bản trong giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách và lối sống; góp phần hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và kinh doanh theo Hiến pháp và pháp luật...
Trong tình hình mới, cùng với chú trọng nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức, cần quan tâm hơn nữa tới việc trang bị “phông văn hóa”, đưa văn hóa thẩm thẩm vào mọi hoạt động kinh tế, giúp con người nhận thức được trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội; biết tôn vinh cái đúng, cái tốt, cái đẹp; biết trân trọng những giá cao thượng, nhân văn.
Những bài học về đạo đức kinh doanh, triết lý kinh doanh và văn hóa ứng xử trong kinh doanh cần phải được lan tỏa song hành với kiến thức - kỹ năng kinh doanh, khởi nghiệp. Bên cạnh những tiêu chí, giá trị chung trong bối cảnh toàn cầu hóa, các doanh nhân, doanh nghiệp Việt cần trang bị, tạo dựng những nét văn hóa riêng, đặc sắc trên cơ sở kế thừa, chọn lọc tinh hoa văn hóa dân tộc, trong đó có văn hóa kinh doanh của của các bậc tiền nhân.
Ở một khía cạnh khác, các chủ thể doanh nghiệp thời hiện đại nếu thiếu văn hóa và triết lý kinh doanh, tư duy hạn hẹp thì không thể thu hút được nhân tài - những bộ óc thông minh, sáng tạo về với mình. Do vậy, văn hóa quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại là điều mà các doanh nhân, người đứng đầu doanh nghiệp muốn thành công và vươn xa cần phải có. Trong đó có việc sử dụng một cách hợp lý, khoa học nguồn nhân lực, phát huy tốt nhất khả năng sáng tạo của con người chứ không chỉ dừng ở cung cách tổ chức sản xuất, kinh doanh đơn thuần.
Ba là, cũng như đa số các quốc gia - dân tộc trên thế giới, những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam đều bắt nguồn từ nền tảng xã hội và lịch sử dân tộc; kết tinh từ hàng ngàn năm cần cù, sáng tạo trong lao động, kiên cường chiến đấu chống ngoại xâm và xây dựng đất nước trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì vậy, việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực đất nước trong tình hình mới phải luôn được củng cố - “bắt đầu lại” từ những giá trị văn hóa và truyền thống vô cùng quý giá của dân tộc.
Đó là chủ nghĩa yêu nước chân chính mà Hồ Chí Minh đã từng đúc kết: “dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(7).
Đó là tinh thần cộng đồng dân tộc, ý chí tự lập tự cường, là đức tính kiên trì, cần cù, “chịu thương chịu khó”, sáng tạo trong lao động.
Đó là đức tính khoan dung, bao dung, vị tha; tôn sư trọng đạo, ham học hỏi, không chùn bước trước khó khăn; dễ dàng hoà nhập, biết “dung nạp” chọn lọc những giá trị mới của thời đại.
Đó là ý thức tiết kiệm, không bao giờ để “quá khẩu thành tàn”, ghét thói lãng phí, xa hoa...
Cần luôn ghi nhớ rằng, đức tính tiết kiệm không bao giờ đồng nhất với thói hà tiện, bủn xỉn. Trong văn hóa Việt Nam, tiết kiệm là sử dụng đúng mục đích, “đúng người đúng việc”, không phí phạm vào những việc vô bổ, không cần thiết. Trong tình hình mới, để khắc phục sự lãng phí (lãng phí nguyên vật liệu, lãng phí tài nguyên thiên nhiên, lãng phí thời gian) thì không những phải củng cố, phát huy ý thức tiết kiệm mà cần phải có sự can thiệp của khoa học - công nghệ. Nghĩa là đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao để “bắt nhịp” được với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và cho ra những phát minh, sáng chế, đổi mới công nghệ và cải tiến quy trình sản xuất.
Bốn là, hơn bao giờ hết, những giá trị văn hóa phải trở thành “chất xúc tác” để “điều hòa” những điều “thái quá bất cập” trong nền kinh tế thị trường hiện nay (như tình trạng tôn sùng quá mức giá trị tiền bạc, vật chất). Một cộng đồng, một xã hội có văn hóa phải bắt đầu từ những con người có văn hóa. Một thể chế, chính sách, chủ trương đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của con người, tiệm cận được tới những giá trị văn hóa... phải được xây dựng trên cơ sở nguồn nhân lực có nền tảng văn hóa và chất lượng thời đại.
Chính những giá trị cốt lõi và nổi trội được kết tinh qua các thế hệ đã làm nên sức mạnh to lớn của dân tộc, đưa đất nước vượt qua nhiều khó khăn, thách thức trong lịch sử hàng ngàn năm qua.
Suy cho cùng thì nguồn nhân lực chất lượng cao cũng chính là những “hiền tài của quốc gia”. Một “hiền tài” phải hội tụ được những tiêu chí cơ bản: có trí tuệ, có năng lực, có phẩm chất đạo đức và nền tảng văn hóa vững chắc. Trí tuệ, năng lực, phẩm chất sẽ làm cho văn hóa tỏa sáng. Văn hóa sẽ củng cố, bồi đắp và phát huy trí tuệ, năng lực, phẩm chất. Thời nào cũng vậy, “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước kém và suy, cho nên các đấng Thánh đế Minh vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí”(8).
Tóm lại, trong tình hình mới, văn hóa nói chung và các giá trị văn hóa truyền thống vẫn luôn là một “sự đảm bảo” và có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo, xây dựng con người thuộc các lĩnh vực, từ chính trị đến kinh tế - xã hội... Do đó, văn hóa cần phải thường xuyên được củng cố, bồi đắp, phát huy trong xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, góp phần làm cho “con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.
GS. TS. NGUYỄN TRỌNG CHUẨN
Nguyên Viện trưởng Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội nhân văn Việt Nam,
Phó Chủ tịch Hội Triết học